董棕(学名:Caryota urens)为棕榈科鱼尾葵属下的一个种。是植物界种子植物门单子叶植物纲中“体格最强壮”者。主产于东南亚热带,包括斯里兰卡、缅甸和马来西亚。另外中国云南、广西等地有少量分部,是热带北缘代表树种之一。董棕树体高大,干型笔直,枝、叶造型优美,为著名观赏树种。另集多种用途于一身,在科研、经济上具极高价值,被列为国家的二级保护植物。
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Móc
Tên khác: Cây Đùng đình; cây Đủng đỉnh
Tên khoa học: Caryota urens
Đặc điểm tự nhiên
Cây thân cột thẳng, thường không phân nhánh, cao từ 10 – 15m, đường kính từ 40 – 50 cm. Lá to, dài 5 – 6m, xẻ lông chim hai lần, phiến hình tam giác với răng cưa không đều về phía trước. Cụm hoa dạng bông mo phân nhánh mọc ở nách lá, dài từ 30 – 40 cm, bao bởi 4 mo, dài 30 cm, lợp lên nhau, dai, các nhánh trải ngang, dài 30 – 40 cm, mang các hoa dày đặc, hoa đơn tính cùng gốc, mỗi hoa cái kèm theo 2 hoa đực trên mỗi đốt. Hoa đực có lá đài dày, hình bầu dục, rộng, cánh hoa thuôn, tù và dai, mang 17 – 22 nhị. Hoa cái hình gần cầu, có hai lá bắc ở gốc giống lá đài, 3 cánh hoa. Quả có dạng hình cầu, hơi lõm, đường kính khoảng 15mm, nhẵn, màu đen, màu đỏ khi chín, có vỏ ngoài hơi dày, vỏ quả trong ngọt, dễ chịu, mang 1 – 2 hạt hình khối, nội nhũ sừng.
Cây ra hoa vào tháng 3 – tháng 4, ra quả vào tháng 10 – tháng 11.
Phân bố, thu hái, chế biến
Phân bố
Cây mọc rải rác ở trong các rừng thưa, rừng thường xanh, rừng thứ sinh; phân bố ở rất nhiều tỉnh thành trong khắp cả nước như Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa.
Ngoài Việt Nam, cây còn sinh sống ở các nước Đông Nam Á khác, Ấn Độ.
Thu hái và chế biến:
Bẹ, rễ móc có thể thu hái quanh năm. Riêng quả thì thu hái sau khi quả chín thường vào tháng 10, tháng 11.
Bộ phận sử dụng:
Bẹ, rễ móc và nhân quả hạch (Petiolus et Semen Caryotae Urentis).
Thành phần hoá học:
Dịch của bông mo thu hái lúc còn non chứa nhiều đường sucrose, có thể lên men để làm rượu.
Công dụng:
Theo y học cổ truyền
Bẹ non có vị đắng, tính bình, có tác dụng thu liễm cầm máu và làm sít ruột, tan hòn cục. Quả Móc có vị cay, tính mát, có tác dụng giải khát và mệt mỏi. Rượu có tác dụng nhuận tràng.
Theo y học hiện đại:
Thân cắt ngang có thể thu được đường, dùng đường này lên men để thu rượu cọ.
Nõn thân và vỏ quả trong để chế biến thức ăn.
Bẹ Móc dùng để trị lỵ, đi tiêu ra máu, bạch đới, rong kinh, băng huyết.
Ở Ấn Độ người ta dùng nhân quả hạch đắp vào đầu nếu bệnh nhân bị đau nửa đầu.
Liều dùng & cách dùng:
Bẹ Móc dùng liều 20g, đốt tồn tính, tán bột uống hoặc cũng có thể sắc uống.
Bài thuốc kinh nghiệm:
Bài thuốc chữa tiểu ra máu hoặc bí tiểu.
Sắc 20g bẹ Móc để uống.
Bài thuốc chữa ho ra máu:
Dùng bẹ Móc đốt cháy (10g), Qua lâu nhân (12g), sắc uống.
Bài thuốc chữa băng huyết:
Bẹ Móc phơi khô, phối hợp với xơ mướp, đồng lượng, đốt thành tro. Mỗi lần uống 6g với ít rượu hoặc nước muối vào lúc đói.
Bài thuốc chưa rong kinh kèm đau bụng:
Bẹ Móc đốt tồn tính 80 g, Kinh giới sao đen 80g, Hương phụ tứ chế (chế biến với giấm, nước muối, nước tiểu trẻ em và rượu, phơi khô) 40g. Tất cả tán nhỏ, rây lấy bột mịn. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 8 – 16g.
Bài thuốc chữa khí hư:
Rễ Móc, rễ Cau, rễ Tre, rễ Cọ, mỗi thứ 12g. Thái nhỏ, sắc còn một bát, chia thành hai lần, uống trong ngày. Uống khoảng 4 – 5 ngày.
Bài thuốc chữa động thai:
Rễ Móc, rễ Chuối rừng, rễ Chuối hột, đồng lượng, đem sao vàng, sắc uống.
Lưu ý
Ngoài Móc, ở nước ta còn có: Móc mương (Caryota rumphiona Blume) mọc nhiều ở Thanh Hóa, có hạt dùng để ăn trầu.
Trong quá trình sử dụng quá lưu ý loại bỏ phần bỏ quả giữa thật kỹ, nếu không sẽ bị ngứa.